Nội dung chính
Nhiều công bố về những lợi tích tiềm năng của canxi trong việc nâng cao sức khỏe, phòng và điều trị bệnh. Phần này tập trung vào một số lĩnh vực mà canxi có hoặc có thể liên quan: sức khỏe của xương và loãng xương; bệnh tim mạch; điều chỉnh huyết áp và cao huyết áp; ung thư đại tràng, trực tràng và tuyến tiền liệt; bệnh sỏi thận và kiểm soát cân nặng.
Sức khỏe của xương và loãng xương
Xương gia tăng kích thước và khối lượng trong giai đoạn tăng trưởng ở trẻ em và thanh thiếu niên, đạt đến khối lượng xương đỉnh ở tuổi 30. Khối lượng xương đỉnh càng lớn có thể làm chậm sự mất xương nghiêm trọng cùng với tuổi tác. Do đó mọi người nên tiêu thụ đủ lượng canxi và vitamin D trong suốt thời thơ ấu, tuổi thanh thiếu niên và giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành. Loãng xương, một rối loạn đặc trưng bởi xương xốp và dễ gãy, là một vấn đề sức khỏe cộng đồng rất quan trọng đối với hơn 10 triệu người Mỹ trưởng thành, 80% trong số đó là phụ nữ (34 triệu người bị thiếu xương hoặc có khối lượng xương thấp, trước đó bị loãng xương.) Loãng xương liên quan nhiều nhất đến việc gãy xương hông, xương cột sống, xương cổ tay, xương chậu, xương sườn và các xương khác. Ước tính có khoảng 1,5 triệu người gãy xương xảy ra mỗi năm ở Hoa Kỳ là do loãng xương.
Khi lượng canxi dung nạp thấp hoặc sự hấp thu canxi kém, sự suy yếu xương xảy ra khi cơ thể sử dụng nguồn canxi dự trữ để duy trì các chức năng sinh học bình thường. Sự mất xương cũng có thể xảy ra như một phần của quá trình lão hóa, đặc biệt ở những phụ nữ sau mãn kinh do lượng estrogen giảm. Nhiều yếu tố làm tăng nguy cơ phát triển bệnh loãng xương, bao gồm những phụ nữ gầy, ít vận động hay lớn tuổi; những người hút thuốc lá; những người uống rượu quá nhiều; và có lịch sử gia đình bị bệnh loãng xương.
Các xét nghiệm mật độ xương (BMD) khác nhau đã có. Giá trị T từ các xét nghiệm này so sánh BMD của người đó với BMD tối ưu (BMD của một người trưởng thành khỏe mạnh 30 tuổi). Giá trị T ≥-1,0 cho biết mật độ xương bình thường, từ -1,0 đến -2,5 cho biết mật độ xương thấp (thiếu xương), và ≤ -2,5 cho biết người đó bị loãng xương. Mặc dù loãng xương ảnh hưởng đến các cá nhân thuộc tất cả các chủng tộc, sắc tộc và cả giới tính, phụ nữ có nguy cơ cao nhất do khung xương của họ nhỏ hơn so với đàn ông và do sự mất xương gia tăng đi kèm với thời kỳ mãn kinh. Tập thể dục đều đặn và lượng canxi và vitamin D dung nạp đầy đủ đóng vai trò quan trọng cho sự phát triển và duy trì xương chắc khỏe trong suốt cuộc đời. Những bài tập chịu sức nặng (chẳng hạn như đi bộ, chạy bộ, các bài tập một chân để trên mặt đất và một chân đạp mạnh xuống đất và làm việc chống lại trọng lực) và các bài tập về sức đề kháng (như các môn thể dục mềm dẻo và liên quan đến cân nặng) hỗ trợ sức khỏe của xương.
Chế phẩm bổ sung canxi và vitamin D được chứng minh là có hiệu quả làm giảm gãy xương và té ngã (có thể gây gãy xương) ở những người trưởng thành lớn tuổi. Tuy nhiên, trong số những người trưởng thành trên 50 tuổi, những lợi ích của chế phẩm bổ sung các chất dinh dưỡng này làm giảm gãy xương vẫn chưa rõ ràng. Một đánh giá hệ thống gần đây từ 26 nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy chế phẩm bổ sung canxi, có hoặc không có vitamin D, làm giảm đáng kể nguy cơ gãy xương tổng thể và gãy xương cột sống, nhưng không làm giảm nguy cơ gãy xương hông hoặc xương cẳng tay. Nhưng bốn nghiên cứu với sai số hệ thống thấp nhất, liên quan đến tổng cộng 44.505 cá nhân, cho thấy chế phẩm bổ sung không có ảnh hưởng đến nguy cơ gãy xương ở bất kỳ vị trí nào. Một phân tích tổng hợp về lượng canxi dung nạp có liên quan đến mật độ xương cho thấy chế phẩm bổ sung canxi chỉ làm tăng lượng nhỏ mật độ xương trong thời gian đầu và không tăng dần sau đó nên không làm giảm đáng kể nguy cơ gãy xương về mặt lâm sàng. Lực lượng đặc nhiệm dịch vụ phòng ngừa Hoa Kỳ (USPSTF) kết luận rằng các bằng chứng hiện tại chưa đủ để đánh giá sự cân bằng giữa lợi ích và tác hại của chế phẩm bổ sung canxi kết hợp với vitamin D để ngăn chặn gãy xương ở phụ nữ tiền mãn kinh hay nam giới. Đối với những phụ nữ sau mãn kinh, USPSTF kết luận rằng trong khi bằng chứng hiện tại chưa đủ để đánh giá sự cân bằng giữa lợi ích và tác hại của chế phẩm bổ sung kết hợp vitamin D (cao hơn 400 IU/ngày) và canxi (cao hơn 1.000 mg/ngày) để ngăn ngừa gãy xương và chưa có lợi ích rõ ràng từ việc bổ sung liều lượng nhỏ các chất dinh dưỡng này vì mục đích trên.
Năm 1993, Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) yêu cầu công bố lợi ích sức khỏe liên quan đến canxi và loãng xương đối với các loại thực phẩm và chế phẩm bổ sung. Vào tháng 01/2010, công bố lợi ích sức khỏe này được mở rộng để bổ sung vitamin D. Mô hình công bố lợi ích sức khỏe bao gồm: “lượng canxi đầy đủ trong suốt cuộc đời, một phần từ chế độ ăn uống cân bằng tốt, có thể làm giảm nguy cơ loãng xương” và “lượng canxi và vitamin D đầy đủ là một phần của chế độ ăn uống lành mạnh, cùng với vận động thể chất, có thể làm giảm nguy cơ loãng xương trong cuộc sống sau này”.
Ung thư đại tràng và trực tràng
Dữ liệu từ các nghiên cứu quan sát và thực nghiệm về vai trò tiềm năng của canxi trong việc ngăn ngừa bệnh ung thư đại tràng, mặc dù thiếu phần nhất quán, đề cập nhiều đến tác dụng phòng ngừa. Một số nghiên cứu cho thấy lượng canxi dung nạp cao hơn từ các loại thực phẩm (các sản phẩm từ sữa ít béo) và/hoặc chế phẩm bổ sung có liên quan đến việc làm giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư đại tràng. Trong một nghiên cứu tiếp theo về việc ngăn ngừa khối u của canxi, chế phẩm bổ sung canxi carbonate làm giảm nguy cơ u tuyến (một khối u ác tính) trong đại tràng, tiền thân của ung thư, thậm chí kéo dài 5 năm sau khi các bệnh nhân ngưng dùng chế phẩm bổ sung. Trong hai nghiên cứu dịch tễ học có triển vọng lớn, đàn ông và phụ nữ tiêu thụ 700–800 mg canxi mỗi ngày làm giảm 40–50% nguy cơ phát triển bệnh ung thư đại tràng phía bên trái. Nhưng các nghiên cứu quan sát khácchưa tìm thấy mối liên quan để có kết luận cuối cùng.
Trong sáng kiến về sức khỏe của phụ nữ, một thử nghiệm lâm sàng liên quan đến 36.282 phụ nữ sau mãn kinh, dùng chế phẩm bổ sung hàng ngày chứa 1.000 mg canxi và 400 IU (đơn vị quốc tế) viatmin D3 trong 7 năm không có sự khác biệt đáng kể về nguy cơ của bệnh ung thư đại tràng so với giả dược. Các tác giả của đánh giá hệ thống Cochrane kết luận rằng chế phẩm bổ sung canxi có thể giúp ngăn ngừa u tuyến trực tràng ở mức độ vừa phải, nhưng không có đủ bằng chứng để khuyến nghịviệc sử dụng chế phẩm bổ sung canxi hằng ngày giúp ngăn ngừa ung thư trực tràng. Thời gian phát triển ung thư đại tràng rất lâu, các nghiên cứu lâu dài là cần thiết để hiểu một cách đầy đủ liệu lượng canxi dung nạp có ảnh hướng đến nguy cơ mắc bệnh ung thư đại trực tràng.
Ung thư tuyến tiền liệt
Một số nghiên cứu dịch tễ học cho thấy mối liên quan giữa lượng canxi dung nạp cao, các loại thực phẩm từ sữa hoặc cả hai và làm tăng nguy cơ phát triển ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác chỉ tìm được mối liên quan yếu, không có mối liên quan hoặc mối liên quan tiêu cực giữa lượng canxi dung nạp và nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Các tác giả của phân tích tổng hợp về các nghiên cứu có triển vọng kết luận rằng tiêu thụ nhiều các sản phẩm từ sữa và canxi có thể làm tăng nhẹ nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt.
Giải thích về bằng chứng hiện có rất phức tạp bởi sự khó khăn trong việc phân riêng các tác dụng của các sản phẩm từ sữa trong đó có canxi. Nhưng nhìn chung, kết quả từ các nghiên cứu quan sát cho thấy tổng lượng canxi dung nạp >1.500 mg/ngàyhoặc >2.000 mg/ngày có thể liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt (đặc biệt là ung thư phát triển nặng hơn và di căn) so với lượng canxi thấp hơn (500–1.000 mg/ngày). Nghiên cứu bổ sung là cần thiết để làm rõ những tác dụng của canxi và/hoặc các sản phẩm từ sữa đến nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt và làm sáng tỏ các cơ chế sinh học tiềm năng.
Bệnh tim mạch
Canxi giúp làm giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch (CVD) bằng cách làm giảm sự hấp thụ của chất béo trong đường ruột, tăng đào thải chất béo, làm giảm nồng độ cholesterol trong máu và đưa canxi vào các tế bào. Tuy nhiên, dữ liệu từ các nghiên cứu có triển vọng về các tác dụng của canxi đến nguy cơ bệnh tim mạch vẫn chưa thống nhất với nhau, và liệu canxi thực phẩm có tác dụng khác nhau đến hệ tim mạch so với canxi bổ sung vẫn chưa rõ ràng. Trong nghiên cứu về sức khỏe của phụ nữ bang Lowa ở Hoa Kỳ, lượng canxi dung nạp cao hơn từ chế độ ăn uống và/hoặc chế phẩm bổ sung có liên quan đến việc giảm tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch thiếu máu cục bộ ở phụ nữ sau mãn kinh. Ngược lại, trong một nhóm phụ nữ Thụy Điển lớn tuổi, tổng lượng canxi dung nạp 1.400 mg/ngày hoặc cao hơn có liên quan đến có tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch và bệnh tim mạch do thiếu máu cục bộ cao hơn so với lượng canxi dung nạp 600–1.000 mg/ngày. Các nghiên cứu có triển vọng khác cho thấy không có liên quan đáng kể giữa lượng canxi dung nạp và bệnh tim mạch hay tử vong do bệnh tim mạch. Dữ liệu của bệnh đột quỵ được gộp chung với một số nghiên cứu cho thấy mối liên quan của lượng canxi dung nạp cao hơn đến việc giảm nguy cơ đột quỵ, và các nghiên cứu khác cho thấy không có mối liên quan hoặc các xu hướng theo chiều ngược lại.
Một số nghiên cứu gần đây gây nên mối lo ngại về sự an toàn của chế phẩm bổ sung canxi đối với bệnh tim mạch. Xiao và cộng sự báo cáo rằng những người đàn ông dùng hơn 1.000 mg/ngày canxi bổ sung có tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch cao hơn 20% so với những người đàn ông không dùng canxi bổ sung, nhưng việc tiêu thụ canxi bổ sung ở phụ nữ không liên quan đến tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch. Khi phân tích lại dữ liệu từ Sáng kiến về sức khỏe của phụ nữ (WHI), Bolland và cộng sự phát hiện ra rằng chế phẩm bổ sung canxi (1.000 mg/ngày) dùng cùng hoặc không cùng với vitamin D (400 IU/ngày) làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch ở những phụ nữ không dùng chế phẩm bổ sung canxi khi họ bước vào nghiên cứu. Các nghiên cứu khác cũng đã chỉ ra rằng những người dùng chế phẩm bổ sung canxi làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch, bao gồm nhồi máu cơ tim và bệnh tim mạch vành. Tuy nhiên, các tác giả phân tích dữ liệu thử nghiệm lâm sàng WHI năm 2013 kết hợp với dữ liệu từ nghiên cứu quan sát WHI thực hiệntrên 93.000 phụ nữ sau mãn kinh trong khoảng 8 năm đã kết luận rằng “gần như không có bằng chứng về ảnh hưởng bất lợi của việc bổ sung canxi và vitamin D đến nguy cơ nhồi máu cơ tim, bệnh tim mạch vành, bệnh tim mạch và đột quỵ”
Các nhà khoa học cho rằng tác dụng phụ của việc bổ sung canxi đến hệ tim mạch có thể được điều chỉnh thông qua chứng tăng canxi huyết. Chứng tăng canxi huyết có thể xảy ra khi lượng canxi dung nạp quá cao kèm theo việc kiểm soát mức serum canxi cân bằng nội môi bình thường. Chứng tăng canxi huyết có liên quan đến việc tăng nguy cơ đông máu, vôi hóa mạch máu và xơ cứng động mạch, do đó làm tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Lượng canxi dung nạp cao cũng có thể làm tăng mức độ tuần hoàn của nguyên bào sợi (fibroblast growth factor 23) liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch. Đặc biệt là canxi bổ sung làm tăng mức serum canxi và một số nhà nghiên cứu cho rằng sự thay đổi đột ngột này có thể gây ra các tác dụng phụ được quan sát.
Nhiều nhà khoa học đặt câu hỏi về sức thuyết phục của các bằng chứng hiện có. Các bằng chứng này liên quan đến việc tiêu thụ canxi bổ sung với nguy cơ mắc bệnh tim mạch và lưu ý rằng các nhà nghiên cứu chỉ xem xét kết quả bệnh tim mạch trong phân tích thứ hai của dữ liệu nghiên cứu và những kết quả này không phải là vấn đề chính của các nghiên cứu về việc bổ sung canxi cho đến nay. Đánh giá về các nghiên cứu có triển vọng và thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên năm 2012, Wang và cộng sự kết luận rằng lượng canxi dung nạp từ chế độ ăn uống hay chế phẩm bổ sung gần như hoặc không ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh tim mạch nhưng bằng chứng hiện có vẫn chưa có kết luận cuối cùng. Khả năng chế phẩm bổ sung canxi có thể gây hại cho hệ tim mạch trở thành chủ đề của nhiều cuộc tranh luận trong cộng đồng khoa học và là lý do chocác cuộc điều tratrong tương lai.
Huyết áp và cao huyết áp
Một số thử nghiệm lâm sàng chứng minh mối liên hệ giữa việc tăng lượng canxi dung nạp với việc giảm huyết áp và nguy cơ cao huyết áp, mặc dù mức giảm không ổn định. Trong nghiên cứu về sức khỏe của phụ nữ, lượng canxi dung nạp tỷ lệ nghịch với nguy cơ cao huyết áp ở phụ nữ tuổi trung niên và phụ nữ lớn tuổi. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác chưa tìm thấy mối liên hệ giữa lượng canxi dung nạp và tỷ lệ mắc bệnh cao huyết áp. Các tác giả của đánh giá hệ thống về tác động của chế phẩm bổ sung canxi đến bệnh cao huyết áp gần như không tìm thấy mối liên hệ, chủ yếu là do chất lượng kém của hầu hết các nghiên cứu và sự khác biệt trong các phương pháp nghiên cứu.
Các nghiên cứu quan sát và thực nghiệm khác cho thấy rằng những người có chế độ ăn chay giàu khoáng chất (như canxi, magie và kali), chất xơ và ít chất béo có xu hướng giảm huyết áp. Phương pháp tiếp cận với nghiên cứuhạn chế cao huyết áp (DASH) được tiến hành để kiểm tra tác dụng của ba mô hình ăn uống khác nhau đến huyết áp: chế độ ăn uống có kiểm soát “điển hình”của người Mỹ; chế độ ăn uống giàu các trái cây và rau củ; và chế độ ăn uống thứ ba giàu các loại trái cây, rau củ và các sản phẩm từ sữa ít béo. Chế độ ăn uống chứa các sản phẩm từ sữa làm giảm huyết áp nhiều nhất, mặc dù sự đóng góp của canxi đến tác dụng này không được đánh giá. Thông tin bổ sung và các kế hoạch về mẫu thực đơn DASH hiện có trên trang web của Viện Tim, Phổi và Máu Quốc gia Hoa Kỳ.
Bệnh sỏi thận
Sỏi thận trong đường tiết niệu phổ biến nhất là canxi oxalate. Một số, nhưng không phải tất cả, nghiên cứu cho thấy mối liên hệ tích cực giữa lượng canxi bổ sung dung nạp và nguy cơ của bệnh sỏi thận, và các nghiên cứu này được sử dụng làm cơ sở cho việc điều chỉnh giới hạn trên của canxi ở người trưởng thành. Trong sáng kiến về sức khỏe của phụ nữ, phụ nữ sau mãn kinh tiêu thụ 1.000 mg canxi bổ sung và 400 IU (đơn vị quốc tế) vitamin D mỗi ngày trong 7 năm có nguy cơ mắc bệnh sỏi thận cao hơn 17% so với những người dùng giả dược. Nghiên cứu về sức khỏe của Y tá cũng cho thấy mối liên hệ tích cực giữa lượng canxi bổ sung dung nạp và sự hình thành sỏi thận. Mặt khác, lượng canxi dung nạp cao từ thực phẩm không gây sỏi thận và còn có thể kìm hãm sự phát triển của sỏi thận. Đối với hầu hết mọi người, các yếu tố nguy cơ khác của bệnh sỏi thận, chẳng hạn như lượng oxalate dung nạp cao từ thực phẩm và việc uống nước ít, đóng vai trò quan trọng hơn so với lượng canxi dung nạp.
Kiểm soát cân nặng
Một số nghiên cứu cho thấy mối liên hệ giữa lượng canxi dung nạp cao hơn với việc giảm cân hoặc tăng cân ít hơn theo thời gian. Vấn đề này được giải thích sau đây. Thứ nhất, lượng canxi dung nạp cao có thể làm giảm nồng độ canxi trong các tế bào chất béo bằng cách làm giảm việc sản sinh hormone tuyến cận giáp và dạng vitamin D hoạt động. Nồng độ canxi trong tế bào giảm làm tăng sự thủy phân chất béo và ngăn cản sự tích tụ chất béo trong các tế bào này. Thứ hai, canxi từ thực phẩm hoặc chế phẩm bổ sung có thể liên kết với lượng nhỏ chất béo thực phẩm trong đường tiêu hóa và ngăn chặn sự hấp thụ chất béo. Đặc biệt là các sản phẩm từ sữa có thể chứa các thành phần bổ sung có thể ảnh hưởng đến trọng lượng cơ thể nhiều hơn so với hàm lượng canxi.
Mặc dù đã có những nghiên cứu trên, các thử nghiệm lâm sàng lại cho kết quả tiêu cực hơn. Ví dụ, việc bổ sung 1.500 mg canxi (từ canxi carbonate) mỗi ngày trong 2 năm chưa thấy các tác dụng đáng kể về mặt lâm sàng ở 340 người trưởng thành thừa cân và béo phì so với giả dược. Ba đánh giá của các nghiên cứu được bố về lượng canxi từ chế phẩm bổ sung hoặc các sản phẩm từ sữa đến việc kiểm soát cân nặng có kết luận tương tự. Theo một phân tích tổng hợp (meta-analysis) từ 13 nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng xuất bản năm 2006 kết luận rằng chế phẩm bổ sung canxi và việc tiêu thụ các sản phẩm từ sữa tăng cường không tác động đáng kể đến việc giảm cân về mặt thống kê. Gần đây, một bằng chứng năm 2009 được báo cáo từ Cơ quan nghiên cứu chăm sóc sức khỏe và chất lượng y tế kết luận rằng các kết quả thử nghiệm lâm sàng tổng thể không ủng hộ hiệu quả của chế phẩm bổ sung canxi đến việc giảm cân.Ngoài ra, theo một phân tích tổng hợp từ 29 nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng không tìm thấy lợi ích của việc tăng tiêu thụ các sản phẩm từ sữa đến trọng lượng cơ thể và giảm chất béo trong các nghiên cứu dài hạn. Nhìn chung, các kết quả từ các thử nghiệm lâm sàng không ủng hộ mối liên hệ giữa lượng canxi dung nạp cao hơn và việc giảm cân.
Tài liệu tham khảo
https://ods.od.nih.gov/factsheets/Calcium-HealthProfessional/