Nội dung chính
- 1 Hợp chất thủy ngân trong vaccine và trong môi trường
- 2 Lịch sử của việc dùng thimerosal trong vaccine
- 3 Mối lo ngại về sức khỏe và tác dụng phụ nếu có
- 4 Câu chuyện về loại bỏ thimerosal ra khỏi vaccine năm 1999
- 5 Hậu quả khôn lường của việc phê chuẩn loại bỏ thimerosal từ vaccine năm 1999
- 6 Tổng kết
- 7 Tài liệu tham khảo
Hợp chất thủy ngân trong vaccine và trong môi trường
Thủy ngân là nguyên tố có tự nhiên trong vỏ trái đất, trong không khí, đất và nước. Có hai loại thủy ngân mà con người có thể tiếp xúc – methylmercury và ethylmercury – và hai loại này có tính chất rất khác nhau.
Methylmercury là hợp chất thủy ngân được tìm thấy trong một số loại cá săn mồi lớn như cá mập, cá thu hoàng hậu, cá kiếm và cá kình. Nguyên nhân methylmercury được tìm thấy ở hàm lượng cao trong các loại cá này là vì methylmercury không thể được đào thải ra khỏi cơ thể và tích tụ dần trong chuỗi thức ăn của cá khi cá lớn ăn cá bé. Phụ nữ trong giai đoạn có thai/cho con bú được khuyến cáo nên tránh ăn bốn loại cá lớn này để hạn chế nhiễm thủy ngân nhưng có thể ăn các loại cá nhỏ hơn (tuy nhiên vẫn cần lưu ý đến mức độ ô nhiễm thủy ngân của từng vùng khi lựa chọn thức ăn hải sản). Tiếp xúc nhiều với methylmercury có thể gây độc thần kinh. Ở Hoa Kỳ, hướng dẫn liên bang khuyến cáo nên hạn chế tiếp xúc với methylmercury từ thức ăn và môi trường càng thấp càng tốt.
Ethylmercury tiếp xúc với con người qua những loại vaccine có chứa hợp chất thimerosal, hợp chất này khi vào cơ thể sẽ phân hủy thành ethylmercury và thiosalicylate.
Năm 1999, mặc dù không có bằng chứng khoa học cho thấy ethylmercury có tác hại như là methylmercury và cũng không có bằng chứng cho thấy vaccine có chứa thimerosal gây ra độc thần kinh nhưng vì lý do thận trọng, Dịch vụ Sức khỏe Cộng đồng (PHS) và Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP) đã đề nghị loại bỏ việc dùng thimerosal trong vaccine.
Trong những năm sau đó (2001-2002), ethylmercury được chứng minh là không có độ độc cao như methylmercury và liều thấp của thimerosal trong vaccine là vô hại. Ethylmercury được chứng minh là có thể được đào thảo ra khỏi cơ thế nhanh hơn và do đó không tích lũy lại giống như methylmercury.
Bình luận thêm: Để bạn đọc hình dung sự khác biệt về độc tính giữa các hợp chất hữu cơ có cấu trúc gần giống nhau, chúng tôi lấy ví dụ đơn giản giữa methanol và ethanol. Ethanol (hay còn gọi là ethyl alcohol) là rượu thường uống, còn methanol (methyl alcohol) là chất có độc tính cao, có thể gây tử vong nếu tiêu thụ lượng lớn.
Lịch sử của việc dùng thimerosal trong vaccine
Lịch sử của việc dùng thimerosal trong vaccine được mô tả như hình bên dưới. Năm 2004, sau khi ethylmercury được chứng minh là không có độc tính cao như methylmercury, thimerosal được cho phép sử dụng lại trong vaccine.
Hiện nay trong vaccine, thimerosal chỉ được dùng như là chất bảo quản cho những ống vaccine chứa đa liều nhằm mục đích ngăn chặn sự phát triển của mầm bệnh như là vi khuẩn và nấm mốc. Khả năng nhiễm khuẩn và nấm mốc xảy ra khi kim tiêm được tiêm vào trong ống để lấy vaccine. Nếu vaccine nhiễm mầm bệnh có thể gây phản ứng cục bộ nghiêm trọng, bệnh nặng hoặc tử vong. (Lưu ý: các loại vaccine đơn liều không dùng thimerosal như là chất bảo quản.)
Ngoài ra, trong hai loại vaccine DTaP và DTaP-Hib, chất bảo quản có chứa thimerosal được cho vào trong quá trình sản xuất để ngăn cản sự phát triển của mầm bệnh. Thimerosal sẽ được loại bỏ sau đó, tuy nhiên vẫn có thể còn ở dạng vết trong vaccine. Các loại vaccine khác ở dạng đơn liều sẽ không có chứa thimerosal.
Mối lo ngại về sức khỏe và tác dụng phụ nếu có
Thimerosal dùng trong các sản phẩm y khoa được ghi nhận là rất an toàn. Dữ liệu từ nhiều nghiên cứu cho thấy liều thấp của thimerosal trong vaccine không gây hại.
Nhiều bậc cha mẹ lo lắng thimerosal có thể là nguyên nhân gây ra độc thần kinh hoặc chứng tự kỷ. Tuy nhiên, những nghiên cứu khoa học uy tín cho thấy thủy ngân trong vaccine không phải là nguyên nhân. Bằng chứng cho thấy ở Hoa Kỳ và một số nước khác, số lượng trẻ bị chẩn đoán là tự kỷ không giảm đi sau khi thimersoal bị loại bỏ khỏi vaccine.
Tác dụng phụ thường gặp nhất do thimersoal gây ra là những phản ứng nhỏ như là mẩn đỏ và sưng ở vị trí chích. Nguyên nhân chủ yếu, mặc dù hiếm gặp, là do có thể có một số người bị dị ứng với thimerosal (dị ứng này là ngẫu nhiên do đa dạng sinh học của con người, cũng như các trường hợp dị ứng thực phẩm khác).
Câu chuyện về loại bỏ thimerosal ra khỏi vaccine năm 1999
Năm 1999, FDA được yêu cầu xem xét lại hàm lượng thủy ngân có trong tất cả các sản phẩm, bao gồm cả vaccine do mối bận tâm về ảnh hưởng có hại lên hệ thần kinh của ethylmercury.
Tại thời điểm đó, chưa có dữ liệu nghiên cứu so sánh sự chậm phát triển thần kinh giữa trẻ có chích vaccine có chứa và không chứa thimerosal, nhưng có một vài bằng chứng đảm bảo rằng hàm lượng thủy ngân trong vaccine là không gây hại. Thimerosal chứa khoảng 50% thủy ngân (ở dạng ethylmercury) về trọng lượng. Ethylmercury có trong nhiều loại thuốc cũng như sinh vật. Người lớn và trẻ em không cẩn thận tiếp xúc với một lượng lớn ethylmercury (gấp 1000 đến 1.000.000 lần hàm lượng có trong vaccine) có thể dẫn đến hủy hại thần kinh vĩnh viễn và gây tử vong. Tuy nhiên, không có dữ liệu (tại thời điểm đó) về việc nếu tiếp xúc với một lượng rất thấp của ethylmercury có gây tích lũy chúng trong cơ thể hay không, và có thể gây ảnh hưởng sự phát triển thần kinh hay không.
Do đó vì lý do thận trọng, EPA đã lấy dữ liệu từ methylmercury để xét cho ethylmercury. Dữ liệu này lấy từ nghiên cứu trên những phụ nữ có thai ở Iraq tiếp xúc với methylmercury từ môi trường. Dựa theo số liệu này, tính toán cho thấy nếu trẻ sơ sinh tiêm đồng thời 3 loại vaccine khác nhau có chứa thimerosal là DTaP, hep B và Hib thì tổng lượng thủy ngân tích lũy đến lúc 6 tháng tuổi là 187,5 μg (=0,1875 mg). Hàm lượng này vượt quá hướng dẫn khuyến cáo của Sở Bảo vệ Môi Trường (EPA) nhưng không vượt quá hướng dẫn của Sở Đăng ký Bệnh Độc chất (ATSDR) hoặc Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA).
Khi lấy dữ liệu này, EPA đã dựa trên hai giả thuyết quan trọng nhưng chưa được kiểm chứng tại thời điểm đó: (1) độc tính và dược động học của ethylmercury là giống với methylmercury và (2) hệ thần kinh trung ương của thai nhi và trẻ sơ sinh đều nhạy cảm như nhau đối với ảnh hưởng có hại của thủy ngân.
Tuy nhiên, những nghiên cứu sau này (2001-2002) đã chứng minh dược động học của ethylmercury và methylmercury không giống nhau. Methylmercury có thời gian bán hủy trong máu là khoảng 50 ngày, còn ethylmercury là 7 ngày. Điều này có nghĩa là ethylmercury có thể bài tiết khỏi cơ thể nhanh hơn nhiều so với methylmercury, do đó hướng dẫn về liều lượng tích lũy (theo thời gian) sẽ rất khác nhau. Để dẫn chứng cho suy luận này, các nhà nghiên cứu từ Đại học Rochester của Hoa Kỳ đã đưa ra dữ liệu (vào năm 2002) rằng hàm lượng thủy ngân được kiểm tra trong máu của 40 trẻ sơ sinh (sinh đủ tháng) lúc 6 tháng tuổi (hoặc nhỏ hơn) được tiêm đồng thời ba loại vaccine có chứa thimerosal là DTaP, hep B và Hib không vượt quá hàm lượng khuyến cáo.
Hậu quả khôn lường của việc phê chuẩn loại bỏ thimerosal từ vaccine năm 1999
Dù là một bước đi đúng của các nhà chức trách khi phê chuẩn loại bỏ thimerosal ra khỏi vaccine vì lý do thận trọng trước khi có đủ kết luận khoa học, việc phê chuẩn đã dẫn tới những hệ quả không lường trước, bao gồm:
- Trước khi sản xuất ra loại vaccine DTaP, hep B và Hib không có chứa thimerosal, các bệnh viện được khuyên nên trì hoãn tiêm vaccine hep B cho những trẻ sơ sinh (từ 2 đến 6 tháng tuổi) nếu mẹ có huyết thanh âm tính với hep B (tức là chỉ nên hoãn tiêm cho trẻ có mẹ không bị nhiễm bệnh). Hep B thường truyền từ mẹ sang con trong giai đoạn ngay trước và sau khi sinh, hoặc truyền giữa các bé trong 5 năm đầu đời khi tiếp xúc với máu của người bị nhiễm bệnh. Một số bệnh viện đã hiểu nhầm hướng dẫn này và ngừng tiêm vaccine hep B cho tất cả trẻ sơ sinh. Hậu quả là có một viện đã báo cáo có 3 trẻ sơ sinh có mẹ dương tính với hep B đã không được tiêm vaccine. Một viện khác báo cáo ca tử vong của trẻ 3 tháng tuổi bị bệnh gan từ hep B, bé này có mẹ dương tính với hep B và không được tiêm vaccine.
- Sau đó, mặc dù vaccine không có chứa thimerosal đã có mặt trên thị trường, nhiều bệnh viện vẫn tiếp tục trì hoãn một cách không hợp lý việc tiêm vaccine hep B.
- Việc loại bỏ thimerosal từ vaccine đã khiến cho một số bậc cha mẹ và bác sĩ tin rằng vaccine chứa thimerosal là có hại, tùy thuộc vào liều tiêm và tuổi được tiêm. Chẳng hạn như, mặc dù trái với hướng dẫn khuyến cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh của Hoa Kỳ, một số bậc cha mẹ và bác sĩ đã do dự không tiêm bất kỳ vaccine nào có chứa thimerosal cho trẻ (chẳng hạn như vaccine cúm dành cho những trẻ có nguy cơ bị nhiễm cúm cao).
- Ngoài ra, mặc dù thimerosal đã được loại bỏ khỏi vaccine để “duy trì niềm tin của cộng đồng đối với việc tiêm phòng”, một số bậc cha mẹ đã mất lòng tin vào những nhóm chuyên môn mà đã khuyến cáo tiêm vaccine trước và sau khi thimerosal được loại bỏ.
Tổng kết
Cũng như những hợp chất khác, không phải cứ sản phẩm có chứa thủy ngân là gây hại. Chúng ta cần hiểu đúng về ngưỡng cho phép của thủy ngân và hợp chất chứa thủy ngân.
Hợp chất thủy ngân có trong vaccine là ethylmercury, không có độc tính cao như là hợp chất methylmercury có trong cá và môi trường. Liều lượng ethylmercury trong vaccine nằm trong ngưỡng an toàn, và chúng có thể được bài tiết ra khỏi cơ thể nhanh hơn nhiều so với methylmercury, do đó không gây liều lượng tích lũy như là methylmercury.
Hiện nay, các loại vaccine đa liều thường đều có chứa thimerosal (hợp chất chứa thủy ngân ở dạng ethylmercury) như là chất bảo quản (nằm trong hàm lượng cho phép và không gây hại). Đối với vaccine đơn liều, hàm lượng thủy ngân chỉ có ở dạng vết trong loại vaccine DTaP và DTaP-Hib. Các loại vaccine đơn liều còn lại không có chứa thủy ngân.