Thứ Năm, 21/11/2024
Dinh dưỡng Thành phần dinh dưỡng Những nhóm đối tượng có nguy cơ thiếu hụt canxi

Những nhóm đối tượng có nguy cơ thiếu hụt canxi

 
canxi
http://www.phununet.com/WikiPhununet/ChiTietWiki.aspx?StoreID=11781

Thống kê về tình hình tiêu thụ canxi

Tại Hoa Kỳ, lượng canxi ước tính dung nạp từ thực phẩm và chế phẩm bổ sung được cung cấp bởi Cuộc Khảo sát Sức khỏe và Dinh dưỡng Quốc gia (NHANES), 2003–2006. Trung bình, lượng canxi dung nạp từ thực phẩm đối với nam từ 1 tuổi trở lên là 871–1.266 mg/ngày phụ thuộc vào nhóm tuổi; đối với nữ là 748–868 mg/ngày. Các nhóm có lượng tiêu thụ trung bình thấp hơn nhu cầu trung bình ước tính EAR (tham khảo bài 1.a.4.8) – và do đó có tỷ lệ thiếu hụt canxi vượt quá 50% – bao gồm các bé trai và bé gái 9-13 tuổi, thiếu nữ 14-18 tuổi, phụ nữ 51-70 tuổi, đàn ông và phụ nữ trên 70 tuổi. Nhìn chung, phụ nữ nhận lượng canxi từ thực phẩm thấp hơn so với nam giới.

Khoảng 43% người Mỹ (trong đó gần 70% phụ nữ lớn tuổi) sử dụng chế phẩm bổ sung canxi, làm tăng lượng canxi dung nạp khoảng 330 mg/ngày cho nhóm người sử dụng chế phẩm bổ sung này. Theo dữ liệu của NHANES 2003–2006, trung bình tổng lượng canxi dung nạp từ thực phẩm và chế phẩm bổ sung dao động từ 918–1.296 mg/ngày đối với những người từ 1 tuổi trở lên. Khi xem xét tổng lượng canxi dung nạp, sự thiếu hụt canxi vẫn là mối lo ngại đối với một vài nhóm tuổi. Các nhóm tuổi này bao gồm bé gái từ 4 tuổi trở lên – đặc biệt là những bé gái tuổi dậy thì – và nam giới 9-18 tuổi và trên 51 tuổi. Ngược lại, một số phụ nữ lớn tuổi tiêu thụ vượt quá giới hạn tiêu thụ tối đa chấp nhận được (UL) nếu xét cả lượng tiêu thụ từ thực phẩm và chế phẩm bổ sung.

Không phải tất cả lượng canxi tiêu thụ đều được hấp thụ hoàn toàn trong đường ruột. Con người hấp thụ khoảng 30% lượng canxi từ thực phẩm, nhưng tỉ lệ này còn thay đổi tùy thuộc vào loại thực phẩm tiêu thụ. Các yếu tố khác ảnh hưởng đến sự hấp thu canxi bao gồm:

  • Lượng tiêu thụ: hiệu quả hấp thu giảm khi lượng canxi dung nạp tăng.
  • Độ tuổi và giai đoạn sống: Khoảng 60% canxi được hấp thu ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ bởi vì trẻ cần lượng khoáng chất này để xây dựng xương. Sự hấp thu giảm còn 15–20% ở tuổi trưởng thành (mặc dù nó lại tăng lên trong giai đoạn mang thai) và tiếp tục giảm khi chúng ta già đi; so với những người trưởng thành trẻ tuổi, lượng canxi tiêu thụ được khuyến nghị cao hơn đối với phụ nữ trên 50 tuổi, đàn ông và phụ nữ trên 70 tuổi.
  • Lượng vitamin D dung nạp: Vitamin này, nhận được từ thực phẩm và được tổng hợp bởi da khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời có cường độ đủ mạnh, giúp cải thiện sự hấp thụ canxi.
  • Các thành phần khác trong thực phẩm: axit phytic và axit oxalic (có mặt tự nhiên trong một số thực phẩm nguồn gốc thực vật) liên kết với canxi và có thể cản trở sự hấp thu canxi. Các loại thực phẩm giàu axit oxalic bao gồm cải bó xôi (spinach), cải rổ (collard green), khoai lang, cây đại hoàng (rhubarb) và các loại đậu. Các loại thực phẩm giàu axit phytic bao gồm các sản phẩm ngũ cốc nguyên hạt chứa chất xơ, cám lúa mì, các loại đậu, các loại hạt, quả hạch và protein đậu nành (soy isolate). Các hợp chất này ảnh hưởng đến mức độ hấp thụ canxi khác nhau. Ví dụ, nghiên cứu cho thấy việc ăn cải bó xôi và sữa cùng lúc làm giảm sự hấp thụ canxi trong sữa. Ngược lại, các sản phẩm lúa mì (ngoại trừ cám lúa mì) không làm giảm sự hấp thu canxi. Đối với những người ăn đa dạng các loại thực phẩm, những tương tác này gần như hoặc không có ảnh hưởng về mặt dinh dưỡng, và hơn nữa cũng đã được tính vào tổng nhu cầu canxi khuyến nghị hàng ngày DRI, vì DRI đã xét đến sự khác nhau về mức độ hấp thu canxi trong một chế độ ăn uống đa dạng.

Một ít lượng canxi hấp thu bị đào thải ra khỏi cơ thể qua đường nước tiểu, phân và mồ hôi. Lượng canxi đào thải chịu sự tác động bởi các yếu tố sau:

  • Lượng natri và protein dung nạp: Lượng natri dung nạp cao làm tăng sự đào thải canxi qua đường nước tiểu. Lượng protein dung nạp cao cũng làm tăng sự đào thải canxi và ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng sử dụng canxi. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây cho thấy lượng protein dung nạp cao cũng làm tăng sự hấp thụ canxi trong đường ruột, bù trừ cho lượng canxi đào thải một cách hiệu quả, do đó tổng lượng canxi lưu giữ trong cơ thể vẫn không đổi.
  • Lượng caffeine dung nạp: Chất kích thích có trong cà phê và trà này có thể làm tăng sự bài tiết và làm giảm sự hấp thu canxi. Ví dụ, một tách cà phê pha thông thường làm mất 2-3 mg canxi. Việc tiêu thụ caffeine vừa phải (1 tách cà phê hoặc 2 tách trà mỗi ngày) ở phụ nữ trẻ tuổi không có tác động tiêu cực đến xương.
  • Lượng rượu/đồ uống có cồn (alcohol) dung nạp: lượng rượu dung nạp có thể ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng sử dụng canxi do rượu làm giảm sự hấp thu canxi và ức chế các emzyme trong gan giúp chuyển đổi vitamin D sang dạng hoạt động. Tuy nhiên, lượng rượu cần thiết để tác động đến tình trạng sử dụng canxi và liệu việc tiêu thụ lượng rượu vừa phải có lợi hay có hại cho xương vẫn chưa được biết rõ.
  • Lượng phốt pho dung nạp: Tác dụng của khoáng chất này đến sự bài tiết canxi là rất ít. Một số nghiên cứu quan sát cho thấy sự tiêu thụ nước giải khát có ga với hàm lượng phosphate cao có liên quan đến việc làm giảm khối lượng xương và làm tăng nguy cơ gãy xương. Tuy nhiên, tác dụng này có thể là do thay thế sữa bằng soda hơn là do tác dụng của chính phốt pho.
  • Lượng trái cây và rau củ dung nạp: Các axit chuyển hóa (metabolic acid) được sinh ra bởi chế độ ăn uống giàu protein và hạt ngũ cốc làm tăng sự bài tiết canxi. Khi được tiêu hóa, các loại trái cây và rau củ làm thay đổi cân bằng axit/base của cơ thể về phía kiềm bằng cách sản sinh ra bicarbonate, bicarbonate làm giảm sự bài tiết canxi. Tuy nhiên, ảnh hưởng của việc tiêu thụ nhiều trái cây và rau củ đến mật độ khoáng trong xương vẫn chưa rõ ràng. Bên cạnh việc làm giảm sự bài tiết canxi, các loại thực phẩm này cũng đồng thời làm giảm sự hấp thu canxi từ đường ruột và do đó có lẽ không ảnh hưởng đến sự cân bằng canxi tổng thể.

Sự thiếu hụt canxi

Lượng canxi dung nạp từ thực phẩm và chế phẩm bổ sung không đầy đủ thường không gây ra triệu chứng rõ ràng trong thời gian ngắn. Nồng độ canxi trong máu được kiểm soát khá chặt chẽ. Việc giảm canxi huyết chủ yếu là các vấn đề sức khỏe hoặc phương pháp điều trị, bao gồm suy thận, phẫu thuật cắt bỏ dạ dày hoặc sử dụng một số loại thuốc (như thuốc lợi tiểu). Các triệu chứng của việc giảm canxi huyết bao gồm tê và mất cảm giác các đầu ngón tay, chuột rút cơ bắp, co giật, hôn mê, chán ăn và rối loạn nhịp tim. Nếu không được điều trị, sự thiếu hụt canxi có thể dẫn đến tử vong.

Về lâu dài, lượng canxi dung nạp không đủ sẽ làm giảm khối lượng xương (ở mức độ thấp hơn so với bệnh loãng xương) (osteopenia), nếu không điều trị có thể dẫn đến loãng xương. Nguy cơ gãy xương cũng tăng lên, đặc biệt ở những người lớn tuổi. Sự thiếu hụt canxi cũng có thể gây ra bệnh còi xương, mặc dù nó thường liên quan đến sự thiếu hụt vitamin D.

Nhóm người có nguy cơ thiếu canxi

Mặc dù sự thiếu hụt hoàn toàn canxi không phổ biến, lượng canxi dung nạp dưới mức khuyến nghị trong thời gian dài có thể gây tác dụng tiêu cực đến sức khỏe. Các nhóm đối tượng sau đây có thể cần bổ sung canxi.

Phụ nữ sau mãn kinh

Thời kỳ mãn kinh dẫn đến tổn hao xương bởi vì việc giảm sản sinh estrogen (một loại hormone sinh dục) làm tăng quá trình tái hấp thu canxi từ xương và làm giảm khả năng hấp thu canxi vào xương. Khối lượng xương thường giảm 3–5% mỗi năm trong những năm đầu tiên của thời kỳ mãn kinh, nhưng thường giảm dưới 1% mỗi năm sau tuổi 65. Lượng canxi dung nạp tăng lên trong thời kỳ mãn kinh không bù trừ được hoàn toàn sự tổn hao xương này. Liệu pháp thay thế hormone (HRT) bằng estrogen và progesterone (một loại hormone giới tính duy trì thai nhi) giúp tăng mức canxi, ngăn ngừa loãng xương và gãy xương. Liệu pháp estrogen khôi phục việc tái tạo xương trong thời kỳ sau mãn kinh đến mức tương tự như trong thời kỳ tiền mãn kinh, làm giảm tỷ lệ mất xương, có lẽ một phần do việc tăng hấp thu canxi trong đường ruột. Một số nhóm và tổ chức y tế ủng hộ việc sử dụng HRT đối với những phụ nữ có nguy cơ cao mắc bệnh loãng xương hay gãy xương. Những phụ nữ này nên hỏi ý kiến của các chuyên gia dinh dưỡng hoặc bác sĩ về việc sử dụng HRT. Ngoài ra, việc tiêu thụ lượng canxi đầy đủ trong chế độ ăn uống có thể giúp làm chậm tốc độ mất xương ở tất cả phụ nữ.

Phụ nữ mất kinh nguyệt và những người bị “tam chứng”

Sự mất kinh, tình trạng chu kỳ kinh nguyệt bị gián đoạn hay không xuất hiện ở những phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ, là kết quả của sự giảm nồng độ estrogen tuần hoàn trong máu, từ đó có tác dụng tiêu cực đến sự cân bằng canxi. Phụ nữ mất kinh thường chán ăn và có tính tình nóng nảy, do đó làm giảm sự hấp thu canxi và gia tăng tỷ lệ bài tiết canxi qua đường nước tiểu, cũng như tỷ lệ tạo xương thấp hơn so với phụ nữ khỏe mạnh. “Tam chứng” (female athlete triad) dùng để chỉ cả ba triệu chứng rối loạn ăn uống, mất kinh và loãng xương. Việc mất kinh do vận động nhiều làm giảm khối lượng xương. Ở các vận động viên nữ và phụ nữ vận động nhiều trong quân đội, mật độ khoáng trong xương thấp, rối loạn kinh nguyệt, một số chế độ ăn uống và tiền sử gãy xương do vận động quá mức có liên quan đến việc tăng nguy cơ gãy xương do vận động quá mức trong tương lai.

Những phụ nữ này nên tiêu thụ đủ lượng canxi và vitamin D. Chế phẩm bổ sung các chất dinh dưỡng này được chứng minh là làm giảm nguy cơ gãy xương do vận động quá mức ở những nữ hải quân mới trong thời gian đào tạo cơ bản.

Những người bị chứng không dung nạp lactose hoặc bị dị ứng với sữa bò

Chứng không dung nạp lactose được dùng để chỉ các triệu chứng (như chướng bụng, đầy hơi và tiêu chảy) xảy ra khi một người tiêu thụ đường lactose, đường tự nhiên có trong sữa, nhiều hơn so với khả năng tiêu hóa của enzyme lactase được sản xuất bởi ruột non. Enzyme lactase thủy phân đường lactose thành các monosaccharide như đường glucose và galactose. Các triệu chứng thường khác nhau phụ thuộc vào lượng đường lactose tiêu thụ, lịch sử của việc tiêu thụ các loại thực phẩm và loại bột chứa lactose. Mặc dù hiện tại vẫn khó để biết rõ mức độ phổ biến của chứng không dung nạp lactose, một số báo cáo cho thấy khoảng 25% người Mỹ trưởng thành không có khả năng tiêu hóa đường lactose, bao gồm 85% người dân Châu Á, 50% người Mỹ gốc Phi và 10% người da trắng.

Những người bị chứng không dung nạp lactose có nguy cơ thiếu hụt canxi nếu họ tránh tiêu thụ các sản phẩm từ sữa. Nghiên cứu cho thấy hầu hết những người bị chứng không dung nạp lactose có thể tiêu thụ lên đến 8 ounce sữa (236 mL sữa) mà không có triệu chứng hoặc gần như không có, đặc biệt nếu được tiêu thụ cùng với các loại thực phẩm khác. Lượng lớn hơn có thể được tiêu thụ nếu rải đều trong ngày và được uống cùng với các loại thực phẩm khác. Các lựa chọn khác để làm giảm các triệu chứng không dung nạp lactose bao gồm ăn các sản phẩm từ sữa chứa ít đường lactose như phô mai chín (như phô mai Cheddar và phô mai Thụy Sĩ), sữa chua hoặc sữa giảm/không chứa đường lactose. Một số nghiên cứu đã kiểm tra xem liệu những người bị chứng không dung nạp lactose có thể thích ứng bằng cách tiêu thụ lượng lactose tăng từ từ trong một khoảng thời gian hay không, nhưng bằng chứng hỗ trợ giải pháp này hiện có lại không nhất quán.

Dị ứng sữa bò ít phổ biến hơn so với chứng không dung nạp lactose, ảnh hưởng 0,6-0,9% dân số. Những người bị tình trạng này không thể tiêu thụ bất kỳ các sản phẩm chứa protein sữa bò và do đó có nguy cơ thiếu hụt canxi cao.

Để đảm bảo lượng canxi dung nạp đầy đủ, những người không dung nạp được lactose và những người bị dị ứng sữa bò có thể chọn các nguồn thực phẩm giàu canxi không chứa sữa (như cải xoăn, cải thìa, cải thảo, bông cải xanh, cải rổ và các loại thực phẩm tăng cường canxi) hoặc dùng chế phẩm bổ sung canxi.

Cải rổ (collard greens) – một loại cải giàu canxi

Cải rổ
(Nguồn ảnh: http://www.finecooking.com/assets/uploads/posts/5217/ING-collard-greens_sql.jpg)

Người ăn chay

Những người ăn chay hấp thụ canxi ít hơn so với những người ăn mặn bởi vì họ tiêu thụ nhiều thực phẩm từ thực vật chứa axit oxalic và axit phytic. Những người ăn chay được phép ăn trứng và các sản phẩm từ sữa (lacto-ovo vegetarian) và những người ăn mặn có lượng canxi dung nạp tương đương nhau. Tuy nhiên, những người ăn chay không ăn thực phẩm có nguồn gốc động vật và những người ăn chay được phép ăn trứng (ovo-vegetarian) (họ ăn trứng nhưng không ăn các sản phẩm từ sữa), không nhận đủ lượng canxi bởi vì họ không ăn các loại thực phẩm có chứa sữa. Trong nghiên cứu đoàn hệ ở Oxford của Cuộc điều tra Tương lai Người Châu Âu về Bệnh ung thư và Dinh dưỡng, nguy cơ gãy xương là tương tự nhau cho những người ăn thịt, người ăn cá và người ăn chay, nhưng cao hơn ở những người ăn thuần chay (họ không ăn bất cứ một sản phẩm nào từ động vật hay trứng), có thể do lượng canxi dung nạp trung bình thấp hơn. Rất khó để đánh giá ảnh hưởng của chế độ ăn chay đến tình trạng sử dụng canxi do thói quen ăn uống đa dạng các loại thực phẩm, và do đó nên được xem xét trên cơ sở từng trường hợp cụ thể.

Tài liệu tham khảo

https://ods.od.nih.gov/factsheets/Calcium-HealthProfessional/