Phan Vũ Xuân Hùng – Thực phẩm Cộng đồng https://thucphamcongdong.vn Dự án Thực phẩm Cộng đồng (https://thucphamcongdong.vn/) ra đời với sứ mệnh là cải thiện và nâng cao nhận thức về thực phẩm – dinh dưỡng và sức khỏe của người Việt. Sun, 21 Aug 2022 12:07:16 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=4.9.23 Mối tương quan giữa sữa bò và một số bệnh phổ biến https://thucphamcongdong.vn/moi-tuong-quan-giua-sua-bo-va-mot-benh-pho-bien-8-g-12.html Sun, 16 Jul 2017 16:00:22 +0000 https://thucphamcongdong.vn/?p=8060 sữa và dậy thì sớm

Bài báo được đăng trên Sức khỏe & Đời sống (SK&ĐS) (26/05/2016) làm dấy lên những lo ngại về sữa thông qua việc cân bằng giữa mặt lợi và mặt hại của sữa...

Bài viết Mối tương quan giữa sữa bò và một số bệnh phổ biến được xuất bản tại Thực phẩm Cộng đồng.

]]>
sữa và dậy thì sớm

sữa và dậy thì sớm

Bài báo được đăng trên Sức khỏe & Đời sống (SK&ĐS) (26/05/2016) làm dấy lên những lo ngại về sữa thông qua việc cân bằng giữa mặt lợi và mặt hại của sữa. Mặt lợi của sữa là tăng hàm lượng chất khoáng trong xương (giúp xương chắc khỏe), tăng chiều cao và giảm ung thư đại trực tràng. Mặt hại là tăng nguy cơ gãy xương và chết sớm, nguy cơ bệnh tim mạch, tiểu đường, nguy cơ ung thư, dậy thì sớm (liên kết đến 8.g.9), không dung nạp đường lactose (liên kết đến 8.g.10), các lo ngại sức khỏe đối với trẻ sơ sinh (hoại tử ruột, dị ứng, thiếu sắt, đau bụng, táo bón) và các vấn đề về hormone tăng trưởng có trong sữa (liên kết đến 8.g.11).

Bài báo đã nêu ra những nghiên cứu liên quan đến sữa bò, nhưng không đề cập rõ ràng về độ tin cậy của những nghiên cứu này. Bạn có thể tham khảo bài viết Cách đánh giá độ tin cậy của các thông tin y học (liên kết đến 8.j.1). Về cơ bản, nghiên cứu tổng hợp hệ thống có độ tin cậy cao nhất, sau đó là nghiên cứu lâm sàng (có thực nghiệm). Còn nghiên cứu quan sát (nghiên cứu thuần tập và nghiên cứu bệnh chứng) có thể có độ tin cậy thấp, đôi khi đưa ra kết luận sai lầm hoặc trái ngược.

Trong bài viết của SK&ĐS, trong số những bài nghiên cứu về mặt lợi của sữa có một số bài là nghiên cứu tổng hợp hệ thống và phân tích gộp (có độ tin cậy cao). Còn toàn bộ những bài phân tích về mặt hại đều là những bài nghiên cứu quan sát (có độ tin cậy thấp). Do đó Thực phẩm Cộng Đồng xin phân tích lại các mặt hại của sữa một cách khách quan hơn. Trong bài viết này, mối liên hệ giữa sữa và một số bệnh phổ biến sẽ được phân tích, còn những mối liên hệ khác sẽ được đề cập đến trong những bài viết khác của TPCĐ.

Lưu ý: TPCĐ không phân tích các lo ngại sức khỏe của sữa bò đối với trẻ sơ sinh vì vốn dĩ trẻ sơ sinh không được khuyến khích uống sữa bò khi chưa được 1 tuổi.

Nguy cơ gãy xương

Nguy cơ gãy xương và chết sớm được đưa ra dựa trên nghiên cứu của Đại học Havard [1] và Đại học Sydney [2] đăng rất nhiều năm về trước (1997 và 1994) và một nghiên cứu mới gần đây (2014) của Cơ quan Lương thực Quốc gia Thụy Điển [3]. Cả ba nghiên cứu này đều thuộc nhóm nghiên cứu quan sát có độ tin cậy thấp. Sau đây chúng tôi sẽ phân tích từng bài một.

Bài nghiên cứu của Đại học Sydney năm 1994

Đây là nghiên cứu bệnh chứng (thuộc nghiên cứu quan sát), không đưa ra số liệu chính xác về lượng sữa dùng mỗi ngày. Ngoài ra, tác giả của bài viết cũng nhấn mạnh kết quả của nghiên cứu này cần được kiểm chứng bởi các nghiên cứu khác. Đó là do nghiên cứu có thể chứa định kiến, cụ thể là các đối tượng tham gia có thể không nhớ chính xác về mức độ tiêu thụ sữa của mình trong vài thập kỷ trước. Đối tượng tham gia nghiên cứu là những người lớn tuổi khoảng 65-74 tuổi, trả lời bảng câu hỏi về mức độ uống sữa lúc 20 và 50 tuổi. Các tác giả cho rằng khả năng nhớ về mức độ uống sữa thường không chính xác và họ không tìm thấy tính hiệu lực của nó. Ngoài ra, các tác giả cũng cho biết họ không chắc về tính hiệu lực khác biệt như thế nào giữa mẫu bệnh (đối tượng bị gãy xương) và mẫu đối chứng (đối tượng không bị gãy xương), vì thường mẫu bệnh có xu hướng lớn tuổi và có sức khỏe xấu hơn (không tính đến mức độ gãy xương) so với mẫu đối chứng. Những yếu tố này dẫn tới kết quả của bài nghiên cứu cần được phân tích cẩn thận và cần được kiểm chứng bởi các nghiên cứu khác.

Bài nghiên cứu của Đại học Havard năm 1997

Bài viết SK&ĐS đã bỏ sót ý của bài nghiên cứu từ Đại học Harvard. Bài nghiên cứu này cho biết, không chỉ sữa mà tất cả các nguồn thực phẩm có chứa canxi khác đều không có tác dụng bảo vệ đối với nguy cơ gãy xương khi về già. Hay nói cách khác, bài nghiên cứu này nói về mối quan hệ giữa canxi (chứ không phải là sữa) với nguy cơ gãy xương. Kết quả của bài nghiên cứu này hoàn toàn không gây bất ngờ vì một mình canxi không đủ để ngăn ngừa loãng xương. Ngoài canxi, chúng ta cũng cần có vitamin D, K và A, cũng như tập thể dục điều độ để bảo vệ xương chắc khỏe [4].

Đó là lý do vì sao nhóm tác giả của bài nghiên cứu trên (Đại học Harvard) trong năm 2003 [5] công bố một nghiên cứu khác cho thấy hầu hết phụ nữ đều không tiêu thụ đủ vitamin D. Chỉ sữa và canxi thôi thì có thể chưa đủ để giúp làm giảm nguy cơ gãy xương, phải tiêu thụ đủ vitamin D mới có thể đem lại hiệu quả.

Năm 2007, có một bài nghiên cứu phân tích gộp cho biết dùng canxi kết hợp với vitamin D giúp ngăn ngừa bệnh loãng xương ở tuổi từ 50 trở lên [6].

Năm 2009, một nghiên cứu của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Bệnh của Hoa Kỳ cho biết cung cấp đủ canxi nhưng lại thiếu hụt vitamin D sẽ không có tác dụng bảo vệ chống lại nguy cơ loãng xương, cần phải có tỉ lệ tối ưu giữa canxi và vitamin cho cho xương chắc khỏe [7].

Thật ra, mối quan hệ giữa canxi và bệnh loãng xương vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ. Trong một số nghiên cứu lâm sàng, tiêu thụ canxi có ảnh hưởng tính cực đến trọng lượng riêng của xương (nghĩa là xương chắc khỏe), điều này rất quan trọng trong giai đoạn trẻ đang phát triển. Còn đối với người lớn tuổi, việc tiêu thụ canxi và ngăn ngừa loãng xương dường như không có mối quan hệ chặt chẽ, đó là do bệnh loãng xương còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác [8].

Bài nghiên cứu của Cơ quan Lương thực Quốc gia Thụy Điển năm 2014

Bài nghiên cứu kết luận tiêu thụ nhiều sữa (> 3 ly sữa mỗi ngày) không làm giảm nguy cơ giảm xương, trái lại có thể liên quan đến nguy cơ tử vong cao hơn. Đây cũng là kết luận được đề cập đến trong bài viết của SK&ĐS. Tuy nhiên, SK&ĐS không nêu toàn bộ kết luận của bài nghiên cứu. Những tác giả bài nghiên cứu cho biết do có những hạn chế trong thiết lập nghiên cứu, họ không chắc liệu nghiên cứu của họ có sai lầm hay không, và kết quả bài nghiên cứu này cần được phân tích cẩn thận, không nên dùng nó để phán xét riêng lẻ, mà cần phải cân nhắc đến kết quả của những bài nghiên cứu khác. Đây cũng là đặc điểm chung của các bài nghiên cứu thuộc nhóm nghiên cứu quan sát.

Năm 2015, tác giả chính (first author) của bài nghiên cứu trên, Karl Michaëlsson, đã đưa ra một bài nghiên cứu tổng hợp hệ thống và phân tích gộp với độ tin cậy cao về mối liên hệ giữa sữa và bệnh tật cũng như nguy cơ tử vong [9]. Kết luận trong bài nghiên cứu này là không có mối tương quan chắc chắn giữa sữa và tất cả các bệnh đã nêu cũng như tỉ lệ tử vong do các bệnh này gây ra. Hay nói cách khác, chính Karl Michaëlsson đã cho chúng ta thấy nghiên cứu quan sát là có độ tin cậy thấp và sữa không có liên quan đến nguy cơ tử vong.

Nguy cơ ung thư

Phần này chúng tôi không phân tích nhiều, vì bài báo trên SK&ĐS đã nói rõ, các nghiên cứu lâm sàng (độ tin cậy cao hơn) không ủng hộ kết quả của nghiên cứu thuần tập (độ tin cậy thấp).

Nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp của Đại học Monash (Úc) năm 2013 cho thấy tiêu thụ sữa không có liên quan đến ung thư đại tràng [10].

Nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp của Đại học Leeds (UK) [11] và Đại học Kunming (Trung Quốc) [12] tương ứng cho thấy tiêu thụ sữa có thể liên quan với tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt và ung thư buồng trứng, tuy nhiên cả hai bài đều khẳng định sự gia tăng này là nhỏ, sai lệch không có nghĩa về mặt thống kê. (Lưu ý: sai lệch không có nghĩa về mặt thống kê tức là sai lệch này có thể là do sai số gây ra, chứ không phải là sai khác thật sự).

Nghiên cứu tổng quan hệ thống và phân tích gộp của Bệnh viên chuyên về ung thư của Trung Quốc cho biết không có mối liên hệ giữa tiêu thụ sữa với bệnh ung thư phổi [13].

Riêng đối với những bệnh nhân đã được chẩn đoán ung thư vú hoặc có nguy cơ ung thư vú cao, lời khuyên của nhóm tác giả là không nên tiêu thụ sữa và các loại kem (cream) từ sữa. Mặc dù trong sữa có những thành phần đã được chứng minh giúp chống lại ung thư như canxi, vitamin D, stearate, lactaptin, lactoferricin từ bò, thậm chí sữa từng được chứng minh giúp bảo vệ khỏi ung thư vú nếu tiêu thụ lúc còn bé, nhưng sữa cũng được cho là có thể làm bệnh ung thư vú trầm trọng thêm cho những người mắc bệnh. Hầu hết sữa tiêu thụ hiện nay được thu hoạch từ những con bò có thai. Lượng hormone tăng trưởng như estrogen và progesterone tăng cao trong sữa của những con bò này, thúc đẩy sự phát triển của các khối u, bởi vì khoảng 2/3 bệnh nhân ung thư vú dương tính với thụ thể của estrogen/progesterone (tức là sự có mặt của các chất này kích thích sự phát triển của tế bào ung thư). Do các chất này tan nhiều trong chất béo hơn trong nước nên kem làm từ sữa chứa nhiều các chất này hơn sữa nguyên chất. Vì vậy, các bệnh nhân ung thư vú cũng cần tránh cả các sản phẩm kem làm từ sữa [14].

Nguy cơ tiểu đường

Bài viết của SK&ĐS không đưa ra tài liệu tham khảo cho nhận định này. Chúng tôi tra tài liệu nghiên cứu trong mối tương quan này tìm thấy những kết quả như sau:

Năm 1994, những nhà nghiên cứu của Bệnh viện Tổng hợp Henderson của Canada có một bài phân tích gộp cho thấy cho trẻ sơ sinh (dưới 4 tháng tuổi) dùng sữa bò có thể làm tăng nguy cơ trẻ mắc bệnh tiểu đường loại 1 (tiểu đường phụ thuộc insulin) gấp 1,5 lần [15].

Năm 1999, nghiên cứu của Bệnh viện Hoàng gia Melbourne của Úc đưa ra giả thuyết rằng mối tương quan giữa sữa bò và bệnh tiểu đường loại 1 có thể liên quan đến hệ thống miễn dịch của trẻ sơ sinh, vốn vẫn đang trong giai đoạn còn phát triển [16].

Như vậy, mối tương quan giữa sữa bò và bệnh tiểu đường mà SK&ĐS đưa ra có thể dựa trên những kiến thức đã cũ. Vì nếu như theo khuyến cáo thì sữa bò không được dùng cho trẻ dưới 1 tuổi.

Trái lại, đối với bệnh tiểu đường loại 2, nhiều bài phân tích gộp mới hơn (độ tin cậy cao) cho thấy tiêu thụ sữa có thể giảm nguy cơ bệnh tiểu đường loại 2 [17-20].

Nguy cơ bệnh tim mạch

Bài viết của SK&ĐS không đưa ra tài liệu tham khảo cho mối tương quan này và cho rằng mối tương quan này là xét cho sữa không tách béo. Một lần nữa, điều này cho thấy SK&ĐS đã dựa trên những kiến thức đã cũ, vốn cho rằng chất béo có mối tương quan có hại cho bệnh tim mạch. Những kiến thức và nghiên cứu mới đã cho thấy tác hại của chất béo có thể đã bị thổi phồng lên. Trên thực tế, các nhà khoa học đang đánh giá lại liệu sữa tách béo (low-fat) có thật tốt hơn sữa không tách béo hay không [21] vì sữa tách béo thường chứa nhiều đường hơn, và tiêu thụ nhiều đường có thể là nguy cơ của nhiều loại bệnh, bao gồm cả bệnh tiểu đường và tim mạch.

Tổng kết

Những thông tin mà SK&ĐS đưa ra về mối tương quan có hại của sữa với một số loại bệnh phổ biến có vẻ mơ hồ, có thể dựa trên những kiến thức đã cũ, không có cơ sở khoa học vững chắc nhưng lại gây hoang mang cho người tiêu dùng.

Thực phẩm Cộng đồng phân tích lại các mối tương quan này một cách khách quan hơn để người tiêu dùng có thể tránh hoang mang. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là TPCĐ đề cao vai trò của sữa bò hơn những loại thực phẩm khác. Chúng ta nên hiểu là sữa bò không phải là thần dược cũng không phải độc dược. Và cũng giống như bao nhiêu loại thực phẩm khác, chúng ta cần hiểu đối tượng nào nên dùng sữa bò và dùng bao nhiêu là hợp lý, vì mọi chế độ ăn uống không cân bằng đều có thể dễ dẫn đến bệnh tật.

Mời bạn đọc bài tiếp theo về Sữa bò: Cái nhìn toàn diện (liên kết đến 8.g.13)

Tài liệu tham khảo

  1. http://ajph.aphapublications.org/doi/abs/10.2105/AJPH.87.6.992
  2. https://academic.oup.com/aje/article/139/5/493/82678/Case-Control-Study-of-Risk-Factors-for-Hip
  3. http://www.bmj.com/content/349/bmj.g6015.long
  4. https://www.hsph.harvard.edu/nutritionsource/calcium-full-story/
  5. http://ajcn.nutrition.org/content/77/2/504.short
  6. http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0140673607613427
  7. http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0899900708005364
  8. http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0022030211005522
  9. http://www.mdpi.com/2072-6643/7/9/5363/htm
  10. http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/10408398.2011.629353
  11. http://ajcn.nutrition.org/content/early/2014/11/18/ajcn.113.067157.short
  12. http://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/01635581.2014.956247?src=recsys
  13. https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4753428/
  14. http://foodforbreastcancer.com/foods/milk
  15. http://care.diabetesjournals.org/content/17/1/13
  16. http://diabetes.diabetesjournals.org/content/48/8/1501.short
  17. http://www.nature.com/ejcn/journal/v65/n9/abs/ejcn201162a.html
  18. http://ajcn.nutrition.org/content/early/2013/08/14/ajcn.113.059030.short
  19. http://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/07315724.2008.10719750?scroll=top&needAccess=true
  20. https://link.springer.com/article/10.1007/s11745-010-3412-5
  21. https://www.forbes.com/sites/melaniehaiken/2013/07/02/lowfat-milk-may-not-be-as-healthy-as-we-thought-says-harvard-expert/#13e8b51e81a0

 

Bài viết Mối tương quan giữa sữa bò và một số bệnh phổ biến được xuất bản tại Thực phẩm Cộng đồng.

]]>
Mối lo ngại về hormone tăng trưởng trong sữa bò https://thucphamcongdong.vn/moi-lo-ngai-ve-hormone-tang-truong-trong-sua-bo-8-g-11.html Sun, 16 Jul 2017 15:42:27 +0000 https://thucphamcongdong.vn/?p=8058 sữa và dậy thì sớm

Bài báo được đăng trên Sức khỏe & Đời sống (SK&ĐS) (26/05/2016) làm dấy lên những lo ngại về sữa thông qua việc cân bằng giữa mặt lợi và mặt hại của sữa...

Bài viết Mối lo ngại về hormone tăng trưởng trong sữa bò được xuất bản tại Thực phẩm Cộng đồng.

]]>
sữa và dậy thì sớm

sữa và dậy thì sớm

Bài báo được đăng trên Sức khỏe & Đời sống (SK&ĐS) (26/05/2016) làm dấy lên những lo ngại về sữa thông qua việc cân bằng giữa mặt lợi và mặt hại của sữa. Trong đó, mối lo ngại về vấn đề hormone tăng trưởng có trong sữa được đề cấp đến. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích mối lo ngại nêu trên.

Hàm lượng hormone trong sữa bò có phải là nguyên nhân gây lo ngại?

Hormone tăng trưởng ở bò, được gọi là bGH, rBGH, bST hoặc bST, được tiêm ở bò nhằm làm chúng tăng trưởng nhanh hơn và sản xuất nhiều sữa hơn. Bản thân những hormone này được cho là không có ảnh hưởng rõ rệt đến sức khỏe con người và không đáng lo ngại. Tuy nhiên, nhiều người lo ngại một số chất không có lợi cho sức khỏe có trong sữa sản xuất từ bò được tiêm hormone. Chất tăng trưởng dạng insulin (insulin-like growth factor, IGF) là một ví dụ. Hàm lượng IGF trong sữa tăng khoảng 10 lần khi bò được tiêm rBGH. Hàm lượng IGF cao trong máu (do uống sữa bò hoặc từ tất cả những nguyên nhân khác) có tương quan đến sự gia tăng nguy cơ ung thư ở người như ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt và các loại ung thư khác.

Tiêu thụ nhiều sữa và các sản phẩm khác từ sữa được chứng minh là làm tăng hàm lượng IGF trong máu ở người. Tuy vậy, điều này không có liên quan trực tiếp tới hàm lượng IGF trong sữa. Đó là bởi vì hàm lượng IGF trong sữa – cho dù là sữa sản xuất từ bò được tiêm rBGH – rất thấp so với hàm lượng có sẵn trong cơ thể chúng ta. Terry Etherton, giáo sư về khoa học động vật và sữa của Đại học bang Pennsylvania cho biết, để đạt được hàm lượng IGF tiết ra trong nước bọt và đường tiêu hóa của chúng ta mỗi ngày, cần phải uống một lượng sữa khoảng 90 lít.

Nếu hàm lượng IGF trong sữa là không đáng kể thì tại sao việc tiêu thụ nhiều sữa lại có liên quan tới việc làm tăng hàm lượng IGF trong máu? Đó là do sữa có chứa nhiều protein, đường (lactose), khoáng chất và những hormone khác bên cạnh IGF – Walter Willett, trưởng khoa Dinh dưỡng của Đại học Harvard cho biết. Chẳng hạn, tiêu thụ nhiều sữa đậu nành cũng tương tự làm tăng hàm lượng IGF trong máu.

Thomas Remer, giáo sư Viện Nghiên cứu Dinh dưỡng Trẻ em ở Đức, cho biết: bất kể đó là sữa, pho mát hay thịt, tất cả các nguồn protein động vật đều có ảnh hưởng rõ rệt đến hệ thống IGF của chúng ta. Marcia Herman-Giddens, giáo sư tại Đại học North Carolina cho biết, thịt, sữa và những thực phẩm tương tự làm dậy thì sớm ở trẻ (vấn đề liên quan đến hormone) là do chúng giàu hàm lượng protein, calo và chất dinh dưỡng. Bạn có thể đọc bài viết Sữa và dậy thì sớm (liên kết đến 8.g.9) để biết liệu sữa hoặc thịt đỏ có phải là nguyên nhân gây dậy thì sớm hay không.

Lời nhắn gởi: vấn đề liên quan giữa tiêu thụ sữa hay thịt động vật với hàm lượng IGF trong máu là do bạn dùng quá nhiều, chứ không phải ở hàm lượng hormone có trong chúng. Ngoài ra, hiện nay vẫn chưa rõ việc uống nhiều sữa bò (dù từ bò có tiêm rBGH hay không) có làm tăng hàm lượng IGF trong máu đến mức đáng lo ngại hay không.

Vậy có nên cho trẻ nhỏ uống sữa bò hay không?

Tùy bạn. Sữa là một nguồn thực phẩm tốt, một hỗn hợp hài hòa của nhiều chất dinh dưỡng khác nhau trong đó đặc biệt là canxi và các vitamin. Trong trường hợp bạn không chọn sữa, bạn cũng có thể phối hợp nhiều loại thực phẩm khác để có được những chất dinh dưỡng trên. Nhiều cơ quan sức khỏe chính phủ Hoa Kỳ, bao gồm Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA), Viện Sức khỏe Quốc gia và Phòng ban Sức khỏe và Dịch vụ Nhân sinh đã xem xét vấn đề và kết luận sữa bò sản xuất theo phương pháp này (có tiêm hormone) là an toàn. Còn các nhóm phản đối thì cho rằng cần phải kiểm nghiệm kỹ hơn và phê chuẩn của FDA là quá vội vàng.

Nếu bạn quyết định cho trẻ uống sữa bò, thì cần lưu ý lượng sữa trẻ uống mỗi ngày (liên kết đến 8.g.13) không nên quá 3 ly vì uống quá nhiều sữa cũng là một dạng của ăn uống không cân bằng, dẫn đến nhiều vấn đề về sức khỏe như là béo phì hay dậy thì sớm.

Có nên chọn các sản phẩm hữu cơ?

Nếu là vậy, có đáng để chúng ta mua sữa hoặc thịt hữu cơ hay không? Walter Willett nói rằng có lẽ là không cần thiết. Việc bạn nên làm là kiểm soát lượng sữa tiêu thụ mỗi ngày. Nếu bạn dùng chúng với lượng hợp lý, thì việc có dùng sản phẩm hữu cơ hay không cũng không tạo ra sự khác biệt.

Tổng kết

Như vậy, cũng như các sản phẩm thịt động vật, tiêu thụ quá nhiều sữa – dù có được sản xuất từ bò có tiêm rBGH hay không – có liên quan đến việc làm tăng hàm lượng IGF trong máu (được chứng minh là có liên quan đến việc làm tăng nguy cơ ung thư). Nhưng đây không có nghĩa là bạn phải cắt bỏ hoàn toàn thịt hay sữa ra khỏi khẩu phần của bạn hoặc con bạn, mà mục tiêu chính là biết được lượng sử dụng như thế nào là hợp lý, trường hợp nào nên dùng và trường hợp nào nên tránh. Bạn nên luôn ghi nhớ một điều, xét về mặt sức khỏe, một chế độ ăn uống lành mạnh và cân bằng luôn là tốt nhất.

Tài liệu tham khảo

http://www.health.com/health/article/0,,20458816,00.html
https://www.cancer.org/cancer/cancer-causes/recombinant-bovine-growth-hormone.html
http://www.babycenter.com/0_bovine-growth-hormone-and-milk-what-you-need-to-know_12493.bc
http://www.huffingtonpost.com/2011/01/31/hormones-in-food-should-y_n_815385.html
https://www.hsph.harvard.edu/news/hsph-in-the-news/three-cups-of-milk-a-day-that-may-be-too-many/

Bài viết Mối lo ngại về hormone tăng trưởng trong sữa bò được xuất bản tại Thực phẩm Cộng đồng.

]]>
Chứng không dung nạp lactose https://thucphamcongdong.vn/chung-khong-dung-nap-lactose-8-g-10.html Sun, 16 Jul 2017 15:29:29 +0000 https://thucphamcongdong.vn/?p=8055 chung khong dung nap duong lactose

Bài báo được đăng trên Sức khỏe & Đời sống (SK&ĐS) (26/05/2016) làm dấy lên những lo ngại về sữa thông qua việc cân bằng giữa mặt lợi và mặt hại của sữa...

Bài viết Chứng không dung nạp lactose được xuất bản tại Thực phẩm Cộng đồng.

]]>
chung khong dung nap duong lactose

chung khong dung nap duong lactose

Bài báo được đăng trên Sức khỏe & Đời sống (SK&ĐS) (26/05/2016) làm dấy lên những lo ngại về sữa thông qua việc cân bằng giữa mặt lợi và mặt hại của sữa. Một trong những mặt hại được đề cập đến là mối lo ngại về chứng không dung nạp lactose. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích kỹ hơn chứng không dung nạp lactose và hệ quả của nó.

Chứng không dung nạp lactose là gì?

Chứng không dung nạp lactose xảy ra khi cơ thể không có đủ enzyme tiêu hóa lactase để tiêu hóa lactose có trong sữa và những sản phẩm tương tự, gây ra những cảm giác khó chịu như tiêu chảy, buồn nôn, đầy hơi, đau bụng.

Giới thiệu về lactase: lactase là enzyme được tìm thấy trong ruột non của động vật có vú, giúp phân cắt lactose thành glucose và galactose. Ở người, lactase thường được sản sinh nhiều trong thời kỳ vị thành niên. Nếu gene mã hóa cho lactase bị đột biến thì trẻ sẽ bị thiếu hụt lactase bẩm sinh dẫn tới chứng không dung nạp lactose (sẽ được đề cập ở phần sau). Nếu lactose không được hấp thụ ở đường tiêu hóa (do thiếu enzyme lactase) thì sẽ bị lên men bởi vi khuẩn dẫn tới tạo thành hơi và gây khó chịu.

Lactose có ở đâu?

Lactose có mặt hầu như trong tất cả các loại sữa, kể cả sữa mẹ, sữa động vật (bò, dê, cừu) và các sản phẩm từ sữa. Lactose chiếm khoảng 7% trong sữa mẹ và sữa công thức. Trong sữa bò, lactose chiếm khoảng 4-5%. Lactose đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của trẻ sơ sinh vì nó đóng góp 40% nhu cầu năng lượng của trẻ và giúp trẻ hấp thu canxi và sắt.

Mức độ phổ biến của chứng không dung nạp lactose và ảnh hưởng của nó đến khả năng tiêu thụ sữa

Chứng không dung nạp lactose phổ biến ở người lớn (trẻ em ít bị chứng này hơn), thường gặp ở người Mỹ và một số người Châu Á, Châu Phi và Nam Mỹ; trong khi đó người gốc Châu Âu ít bị chứng này hơn. 90% dân số của một số nước Châu Á bị chứng không dung nạp lactose. Hiện chưa tìm được số liệu cụ thể cho Việt Nam.

Chứng không dung nạp lactose thường bắt đầu ở tuổi thanh thiếu niên hoặc trưởng thành. Hầu hết người bị chứng không dung nạp lactose ở độ tuổi này đều có thể sử dụng một lượng vừa phải sữa và các sản phẩm sữa mà không có vấn đề gì.

Trường hợp trẻ sơ sinh bị chứng không dung nạp lactose bẩm sinh là rất hiếm gặp. Nhưng nếu là trường hợp này thì trẻ hoàn toàn không thể dùng sữa và các sản phẩm từ sữa có chứa lactose ở bất kỳ hàm lượng nào.

Một số trẻ sinh non có thể bị chứng không dung nạp lactose tạm thời do cơ thể chưa sản sinh enzyme lactase. Sau một thời gian khi cơ thể bắt đầu sản sinh lactase thì triệu chứng này sẽ khỏi.

Mức độ nguy hiểm của chứng không dung nạp lactose

Khác với chứng dị ứng sữa có thể đe dọa đến tính mạng, chứng không dung nạp lactose chỉ gây khó chịu ở dạ dày và cơ thể của bạn có thể giúp bạn phát hiện được chứng này. Nếu bạn chỉ thấy khó chịu một lần nào đó sau nhiều lần uống sữa, khả năng cao là cơ thể bạn vẫn dung nạp lactose bình thường. Nhưng nếu bạn luôn bị như vậy mỗi khi bạn uống sữa, ăn kem hoặc các sản phẩm khác từ sữa thì có lẽ bạn bị chứng này.

Nếu bị chứng không dung nạp lactose thì làm cách nào bổ sung đủ canxi?

Viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị bác sĩ ở những vùng dân cư có tỷ lệ không dung nạp lactose cao cũng không nên khuyến cáo người tiêu dùng không dùng sữa và các sản phẩm từ sữa. Những người bị chứng không dung nạp lactose có thể dùng loại sữa có hàm lượng lactose thấp hoặc không chứa lactose, hoặc dùng sữa chua mà không có vấn đề gì. Họ cũng có thể chọn cách khác để bổ sung canxi từ các nguồn khác như cá mòi (sardines), rau có màu xanh đậm (súp lơ xanh, cải xanh) và các loại hạt (hạt bí đỏ, hạt hạnh nhân).

Lời nhắn gởi

Mặc dù số liệu cho thấy 90% dân số của một số nước Châu Á không dung nạp được lactose, chưa có số liệu cụ thể cho Việt Nam. Trẻ nhỏ thường ít bị chứng không dung nạp lactose hơn so với người lớn. Chứng không dung nạp lactose không đe dọa tính mạng như chứng dị ứng sữa. Người bị chứng không dung nạp lactose (trừ người bị chứng này bẩm sinh) vẫn có thể dùng sữa ở mức độ vừa phải mà không có triệu chứng gì (hãy lắng nghe cơ thể của bạn). Những người này có thể dùng sữa chua hoặc sữa có hàm lượng lactose thấp, hoặc chọn cách khác để bổ sung canxi.

Tài liệu tham khảo

http://suckhoedoisong.vn/he-mo-su-that-khong-ngo-vesua-n117140.html
https://www.britannica.com/science/lactase
http://www.webmd.com/digestive-disorders/digestive-diseases-lactose-intolerance#1
http://www.webmd.com/digestive-disorders/tc/lactose-intolerance-topic-overview#1
http://www.lactoseintolerant.org/understanding-lactose-intolerance/health-risks/
http://onlinelibrary.wiley.com/doi/10.1111/j.1365-2036.2007.03557.x/epdf
http://raisingchildren.net.au/articles/lactose_intolerance.html/context/644
https://en.wikipedia.org/wiki/Lactose_content_of_foods

Bài viết Chứng không dung nạp lactose được xuất bản tại Thực phẩm Cộng đồng.

]]>